Người Huế còn quan niệm Lân vào nhà là may, là no ấm nên người ta thường mở rộng của để đón Lân vào nhà. Trong tiếng trống thúc giục, Lân đỉnh đạc nhảy vào gian giữa của ngôi nhà, múa rất oai vệ...
|
Múa Lân trước lầu Ngũ Phụng |
Năm nào cũng vậy, khi tiếng trống Lân vang lên, có một người nghệ sĩ dù nay đã ngoài 90, vẫn say mê dõi theo nhịp trống.
Người nghệ sĩ ấy là Cụ Hồ Thái Nghi – 90 tuổi - hiện ở tại đường Phan Đăng Lưu - Huế. Những năm 1930, Cụ Hồ Thái Nghi là chủ của Đoàn Lân gia đình có tên “ Thái Nghi Đường” chuyên biểu diễn cho Vua xem. Đoàn Lân gia đình cụ cũng thường có mặt phục vụ trong các dịp Vua đón sứ thần nước ngoài hoặc mừng thọ Vua, mừng thọ Thái Hậu.
Cụ Thái Nghi vốn là một võ sư. Theo cụ , để điệu múa Lân đẹp, hấp dẫn, người múa phải biết võ, chí ít cũng phải biết đứng tấn để bộ pháp chững chạc, linh hoạt. Năm người con trai cụ, ai cũng thích múa Lân, nhưng để có được điệu bộ của những con Lân sống động đang nhảy múa, lăn vòng, dịu dàng đùa giỡn với lá cây, dũng mãnh phóng lên vồ trái cầu... thì cần phải trải qua một quá trình khổ luyện lâu dài. Chính vì thế mà trong 5 người con trai của cụ, chỉ có người con trai út là Hồ Văn Thái Sơn là nối được nghiệp cha và trở thành Chủ nhiệm Câu lạc bộ Lân truyền thống TP Huế.
Do hình thức múa cho Vua xem nên con Lân của Huế rất đĩnh đạc, có những bước nhảy thấp. Tiết tấu trống Lân Huế mang âm sắc cung đình - tiếng trống đánh lên nghe không vang rền, như bị kìm lại, bị tức nên rất mạnh. Đây là điểm khác biệt giữa múa Lân Huế với múa Lân Sài Gòn ( thực chất chính là múa Lân Trung Quốc – do những cư dân người Việt gốc Hoa ở Chợ Lớn tổ chức). Múa Lân Sài Gòn thường mang đậm tính biểu diễn võ thuật. Múa để biểu dương sức mạnh và tính mạo hiểm chứ không theo một điển tích nào cả. Vì thế, con Lân múa rất cao, biểu diễn ào ạt...). Từ chỗ xuất hiện trong cung đình, múa Lân sau đó rất phổ biến trong dân gian. Thế nên một màn múa Lân Huế có 7 trường đoạn, đó là “Thần linh xuất động” (Lân tỉnh dậy sau một thời gian tu luyện và ra khỏi hang ); “ Bát bộ liên hoa”; “Phục Lân”; “ Lân linh chi”; “ Lân tranh châu”; “ Lân lý kiều” và “ Lân hồi sơn”.
Điểm nổi bật của múa Lân truyền thống Huế là múa theo các trường đoạn trên nên tính nghệ thuật cũng mang nặng ý nghĩa biểu cảm. Người múa Lân muốn thành công phải hiểu các trường đoạn mới nhập vai được. Không chỉ là nghệ thuật múa mà hình ảnh con Lân Huế còn có một vẻ đẹp rất thơ. Trong logo biểu tượng Lân Huế luôn có ánh trăng thu – Đây là điều độc đáo mà chỉ riêng Huế có. Trong múa Lân Huế, bao giờ cũng có hai con: con Kỳ và con Lân (tức là Lân đực và Lân cái). Ông Địa tượng trưng cho sự hoan hỉ, cầm quạt để xua đuổi tà ma. Người Huế còn quan niệm Lân vào nhà là may, là no ấm nên người ta thường mở rộng của để đón Lân vào nhà. Trong tiếng trống thúc giục, Lân đỉnh đạc nhảy vào gian giữa của ngôi nhà, múa rất oai vệ...
|
Gia tộc Thái Nghi đường |
Vốn là con vật biểu thị cho sự thịnh trị, thái bình của vương triều, sự no ấm của muôn nhà nên con Lân ngày xưa thường có hai màu chủ yếu: màu vàng tượng trưng cho Vua và màu xanh lá cây tượng trưng cho hoàng tộc. Cụ Hồ Thái Nghi cho biết : “ Ngày xưa Đoàn múa Lân cũng có đẳng cấp. Đẳng cấp này phân biệt dựa trên màu lông lợp trên cặp lông mày của con Lân. Thường có 3 đẳng cấp : Râu trắng trên 25 năm, râu đỏ trên 10 năm và râu đen trên 5 năm. Không phải ai muốn làm đầu Lân theo màu nào cũng được đâu”. Ngày nay, đầu Lân ở Huế được làm nhiều màu hơn, người múa cũng không còn phân biệt đẳng cấp10 năm hay 20 năm.Tuy nhiên, nếu so với cách làm đầu Lân của Sài Gòn thì đầu Lân Huế vẫn còn giữ những nét chủ yếu của ngày xưa.
Ông Lê Văn Trai, chủ hiệu làm Đầu Lân Thu Đông ở đường Phan Đăng Lưu – cơ sở làm đầu Lân cha truyền con nối đã hơn 50 năm nay - cho biết: “ Bây giờ đầu Lân Huế làm nhiều màu sắc hơn nhưng đó là những đầu Lân nhỏ, dành riêng cho trẻ em. Với những đầu Lân lớn thì chúng tôi vẫn làm theo quan điểm của Lân Huế xưa. Hình dáng con Lân hội tụ những nét tinh của của các linh thú khác. Có 3 màu chủ đạo là vàng,đỏ, đen là những màu thể hiện sự hài hoà giữa trời và đất. Hai ngù của Lân và phần trán là hai cái ngù và nét tinh anh của con rồng; hai má Lân có màu vàng tượng trưng cho con hổ, vì vậy người ta gọi là: “ Hổ - Báo hình”( tức là hình dạng con Lân là của con hổ và con báo ). Miệng của Lân là miệng của cá chép theo điển tích “ Cá chép hoá rồng”. Quanh đầu Lân, chúng tôi vẫn vẽ theo điển tích xưa, có đủ các con vật như con ốc sên, rắn, rít..., theo đúng truyền thuyết Lân bị đày phải ở trong hang đá nên các loài vật đeo bám đầy trên mình.”
|
Đội múa Lân |
Múa Lân Huế bây giờ không còn bó hẹp trong phạm vi Huế mà những bước nhảy của Lân Huế đã đến với bạn bè thế giới. Tại các Liên hoan múa Lân quốc tế tổ chức tại Huế hay ở nước ngoài, múa Lân Huế luôn nhận được nhiều lời khen ngợi. Lối múa thì bài bản, có tích có tuồng nên dễ gây xúc động, hình ảnh con Lân thì mềm mại, duyên dáng. Anh Hồ Văn Thái Sơn đã kể một ký niệm không bao giờ quên, đó là vào năm 2000, tại liên hoan múa Lân châu Á tổ chức ở Okinawoa (Nhật ), khi Đoàn Lân Huế múa trường đoạn “ Lân tranh châu”, người múa đã thả những hạt kim sa xuống đất, khán giả Nhật đã vỗ tay tán thưởng một cách thú vị, nhiều người đã nhặt những hạt trân châu giả đó xem như là một điều thiêng liêng, đem đến điều may mắn cho
“ Nghệ thuật phục vụ nhân sinh, phục vụ cuộc sống”, trong mỗi màn múa Lân Huế cũng chuyển tải bao khát vọng của con người : đó là khát vọng thái bình, no ấm. Mỗi mùa Trung thu về, khi tiếng trống múa Lân rộn ràng đầu ngõ, thì nhà nhà ở Huế đều mở của đón Lân thay cho lời khấn nguyện hoà bình, no ấm.